Tạm thời trích dẫn một ít từ tài liệu của PGS. TS. Nguyễn Anh Diệp các bạn có thể tham khảo, tớ sẽ đưa thêm lên sau:
Tên khoa học của các taxon sinh vật
1. Luật danh pháp sinh vật
Luật danh pháp sinh vật gồm các quy tắc và những điều cần lưu ý trong khi đặt tên khoa học cho các taxon sinh vật và những điều cần lưu ý khi áp dụng và xét về tương quan giữa các tên đã đặt ra từ trước.
Hiện nay có ba bộ luật quốc tế về danh pháp sinh vật độc lập với nhau:
Luật quốc tế danh pháp động vật - International Cod of Zoological Nomenclature – ICZN
Luật quốc tế danh pháp thực vật - International Cod of Botanical Nomenclature - ICBN
Luật quốc tế danh pháp vi khuẩn - International Code of Nomenclature of Bacteria – ICNB
Luật danh pháp sinh vật không có tính chất pháp lý như các bộ luật khac. Việc tuân thủ các điều khoản của luật danh pháp hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện chấp hành của các nhà phân loại học. Sự “trừng phạt” duy nhất có thể áp dụng đối với những nha phân loại học không chấp hnàh các điều khoaả của luật danh pháp là sự xem thường, không tôn trọng của các đồng nghiệp và không để ý đến tác phẩm của họ. Các nhà phân loại học cần tìm hiểu và tuân thủ các điều luật về danh pháp, ngay cả khi có những ý kiến bất đồng. Những ý kiến bất đồng càn thảo luận có thể đề xuất lên tiểu ban danh pháp xem xét và quyết định.
2. Tính chất của tên khoa học
- Tính duy nhất: Mỗi taxon chỉ có một tên duy nhất, khác với các tên khác. Nếu như một taxon đã có nhiều tên khác nhau thì phải áp dụng nguyên tắc ưu tiên trong luật danh pháp quốc tế để xác định một tên duy nhất là tên đúng hay tên có hiệu lực (theo ICBN, ICZN, ICNB).
- Tính phổ cập: Nếu như chỉ gọi các loài sinh vật theo tiếng địa phương thì việc trao đổi thông tin khoa học giũa các nhà sinh học trên thế giới sẽ vô cùng khó khăn. Để có thể trao đổi thông tin, các nhà sinh học sẽ phải học tên các loài sinh vật bằng rất nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Đôi khi, một loài sinh vật có thể được gọi theo hai hoặc ba tên theo tiếng địa phương, ngược lại cũng có không ít trường hợp một tên có thể gọi cho hai hoặc ba loài khác nhau. Để khắc phục khó khăn này, các nhà sinh học trên toàn thế giới nhất trí cách gọi tên sinh vật theo một loại ngôn ngữ chung – ngôn ngữ Latin. Vì vậy tên khoa học của các taxon sinh vật cũng thường được gọi là tên Latin.
- Tính ổn định: Bất cứ một thay đổi nào đối với một tên khoa học đã được đặt ra của một taxon sinh vật đều gây nên sự xáo trộn và những khó khăn trong việc lưu trữ và truy cập thông tin sinh học. Mục tiêu của luật danh pháp quốc tế là nhằm đảm bảo ba tính chất cơ bản của tên khoa học của các taxon sinh vật và nâng cao hiệu quả của hệ thống lưu trữ và trao đổi thông tin khoa học giữa các nhà phân loại học và sinh học toàn thế giới. Nếu trong trường hợp cá biệt nào đó tính ổn định của danh pháp bị đe doạ thì Uỷ ban Quốc tế về danh pháp tuỳ điều kiện cụ thể có thể đình chỉ việc áp dụng chặt chẽ bộ luật này.
3. Tên khoa học của taxon loài
Tên khoa học của các loài sinh vật (động vật, thực vật, vi khuẩn) là tên kép (biomen) gồm hai từ: Từ thứ nhất là tên giống (chi - ở thực vật), từ thứ hai là tên riêng của loài, chữ cái đầu tiên của tên giống bao giờ cũng viết hoa, từ riêng của loài không bao giờ viết hoa. Ví dụ: Ruồi nhà – Musca domestica L. ; Từ riêng của loài không bao giờ đứng riêng, bao giờ cũng phải viết sau tên giống.
Trong một báo cáo hoặc một tài liệu khoa học, khi đã viết đầy đủ tên hai từ thì những lần sau có thể viết tắt tên của giống. Ví dụ: M. domestica. Trong trường hợp có thể nhầm lẫn như tên hai loài muỗi Aedes aegyti và Anopheles maculipenis, khi viết tắt có thể viết: Ae. aegypy và An. maculipenis. Cần nhớ: Cuối từ viết tắt của tên giống bao giờ cũng phải có dấu chấm.
Tên giống và tên riêng của loài có thể là từ ghép của hai hay nhiều từ, nhưng phải viết liền thành một từ, không dùng dấu nối (tên loài thực vật có thể dùng dấu nối những từ ghép).
Tên khoa học của các taxon nhóm loài phải là một từ Latin hoặc Latin hoá, gồm hai hoặc nhiều hơn 2 chữ cái, hoặc một từ ghép của hai từ nhưng không có dấu nối và phải là tính từ hoặc động tính từ (particible) danh cách (nominative) số ít, và hợp với tên giống về ngữ pháp, hoặc một danh từ ở dạng danh từ cách số ít làm đồng vị ngữ của tên giống, hoặc một danh dừ thuộc cách (cách sở hữu), một tính từ dùng như một danh từ thuộc cách.
Trong phân loại thực vật tên loài cũng tương tự như ở động vật. Tuy nhiên, tên riêng của loài có thể dùng từ bất kỳ nguồn nào thậm chí có thể là từ ghép hoàn toàn nhân tạo. Từ tên riêng của loài có thể là từ ghép của hai hoặc nhiều từ nối với nhau bằng dấu nối và phải là một tính từ hoặc một danh từ thuộc cách, hoặc một đồng vị ngữ. Ví du: Atropa bella-donna.
4. Tác giả và cách trích dẫn tác giả của tên khoa học
4.1 Tác giả của tên khoa học
Tác giả hoặc các tác giả của tên khoa học của một taxon sinh vật là người hoặc những người đầu tiên công bố tên khoa học theo các quy định về tiêu chuẩn công bố hợp lệ hoặ công bố có hiệu lực và áp dụng đầy đủ các quy định về cách đặt tên khoa học.
4.2 Cách trích dẫn tên tác giả
Luật danh pháp động vật không có quy định bắt buộc phải trích dẫn tên tác giả của tên khoa học nhưng khuyến cáo nên trích dẫn tên tác giả cùng với thời gian công bố, để làm tăng giá trị tham khảo của tên khoa học, nhất là trong trường hợp xét tương quan giữa các tên đồng danh (một tên khoa học gọi cho hai hoặc nhiều taxon = homonym).
Luật danh pháp thực vật quy định việc trích dẫn tên tác giả của tên khoa học cùng với thời gian công bố là cần thiết với mục đích hướng dẫn sử dụng chính xác và đầy đủ tên khoa học của một taxon.
Tác giả của tên khoa học, nếu được trích dẫn, không tính là thành phần của tên khoa học, nhưng làm tăng tính chính xác và giá trị tham khảo của tên khoa học: Caliphaea thailandica Asahina, 1976;
Khi trích dẫn, tên tác giả, viết sau tên khoa học với khoảng cách thích hợp, nhưng không có dấu chẩm, phẩy hoặc bất kỳ dấu nào khác. Nếu tên tác giả có nguồn gốc không phải là tiếng Latin thì phải Latin hoá và không viết các loại dấu phụ. Trong cùng một báo cáo hay một thảo luận khoa học, nếu một tên khoa học của một taxon đã được trích dẫn đầy đủ tên tác giả và thời gian công bố, thì những lần viết sau không cần dẫn tên tác giả. Nếu có hai hoặc nhiều người đồng thời là tác giả của một tên khoa học, sau khi đã trích dẫn đầy đủ tên các tác giả, thì những lần sau (trong cùng một báo cáo hoặc thảo luận khoa học) có thể viết tên tác giả đầu tiên thêm vào ,et al.’
+ Dùng từ ex và in khi trích dẫn
Đôi khi có hai tên tác giả của tên khoa học được trích dẫn, viết nối với nhau bàng từ in hoặc ex. Hoặc sensu: ví dụ:
Viburnum ternatum Rechder in Sargent
Tên tác giả viết như trên có nghĩa là Rechder là người công bố tên hữu hiệu Viburnum ternatum trong tác phẩm của Sargent. Viết như trên chỉ với mục đích chỉ ra tác phẩm công bố có liên quan đến tên khoa học. Trong trường hợp như vậy, tên viết trước in là tên tác giả. Có thể lược bỏ in Sargent.
Gosypium tomentosun Nutt. ex Seem
Trong ví dụ này, tên tác giả này tên tác giả được viết Nutt. ex Seem có nghĩa là: Nutt. Là tên người đặt tên khoa học Gossypium tomentosun, nhưng không công bố mà chỉ viết trong nhãn của vật mẫu mang tên, hoặc công bố không hợp lệ vì chưa bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn công bố theo luật, vì vậy không phải là tác giả của tên. Seem (viết sau ex) là tên tác giả công bố hữu hiệu (hay hợp lệ) tên khoa học này. Như vậy, tên viết sau ex là tên tác giả của tên khoa học, viết trước ex tuy là người đặt tên nhưng không phải là tác giả của tên, có thể lược bỏ. Tên khoa học này có thể viết gọn lại thành: Gossypium tomentosun Seem.
Theo ICZN và ICNB, tên viết trước ex là tên tác giả công bố hợp lệ