Những lập luận nào để những người đang ra sức hô hào phàt triển biofiltration cho rằng việc họ phân hủy hợp chất hữu cơ để thảy ra CO2 thì có ích cho nhân lọai, trong khi cả thể giới đang hô hào cắt giảm sản lượng khí này
Biofiltraton không quan niệm là một quá trình cháy chậm như lonxon tưởng . Thực chất Biofiltraton là hệ thống kết hợp của những quá trình cơ bản sau : quá trình hấp thụ, sự hút bám hóa học, sự phân hủy và tái hấp thụ các chất bẩn thuộc pha khí từ quá tình lọc sinh học.
*Về cơ bản, sản phẩm tạo thành từ quá trình lọc sinh học:
Chất bẩn ( chất ô nhiễm ) đi vào Biofilter có thể là dạng chất khí giàu năng lượng hoặc những phân tử vô cơ đơn giản như NH3 hay H2S. Chúng có thể được chuyển hóa tới CO2, H2O hoặc sulphate và nitrat bởi 1 loại VSV. Theo một cách khác, hợp chất có thể được chuyênt thành một sản phẩm trung gian bởi một nhóm VSV khác. Một hợp chất phức hay mọtt hợp chất khó phân hủy có thể trải qua một vài quá trình chuyển hóa khác nhau bởi một số lòai VSV trước khi đi vào quá trình khoáng hóa. Một sản phẩm trung gian cùng với một áp suất lớn có thể thoát ra ngoài theo dòng khí ra, trong khi những phần còn lại được phân hủy và tích lũy trong biomass (sinh khối ) hoặc bị rửa trôi trong leachate (nước tro, hay nước thải từ quá trình lọc).
Một phần lớn của Cacbon trong chất bẩn sẽ được hợp nhất ( là cấu phần ) trong biomass. Biomass bản thân chúng sẽ bị phân hủy như là SV chết và được tích lũy trong quá trình đồng hóa của chúng. Biomass có thể thoát ra theo dòng khí ra hay leachate, nhưng khối lượng này là rất nhỏ nếu so với khối lượng hiện có trong biomass. Những sản phẩm đã được chuyển hóa (sản phẩm trung gian, biomass và các chất vô cơ ) sẽ được hấp thụ lên nguyên liệu lọc hay hòa tan trong nước.
* Nhiệt sinh ra:
Như ta đã biết thì quá trình ô xi hóa một hợp chất hữu cơ sẽ sinh ra nhiệt. Trong khi chúng ta vẫ quen nói là VSV sử dụng năng lượng, thực chất chúng chuyển năng lượng hóa học thành dạng nhiệt. Với một số chất, lựơng nhiệt tạo ra là đáng kể với quá trình. Ví dụ : Quá trình ô xi hóa hoàn toàn một gam rượu ( ethanol) trong bình đo nhiệt chứa không khí khô thì lượng nhiệt tăng lên là đáng kể từ 20oC-30oC.Tuy nhiên khi thiết lập hệ thốn lọc, một số nhân tố phải được tính toán để định lượng sự cân bằng nhiệt.
Trong một hệ thống lọc , mà nó không ở trạng thái ổn định, một lượng nhiệt được giải phóng bởi quá trình sinh học sẽ đựoc phân bố trong hệ thống lọc và làm tăng nhiệt độ của Biofilter. Nguyên liệu lọc và bình Biofilter sẽ hấp thụ lượng nhiệt này. Nếu như Biofilter ở trạng thái điều khiển ổn định thì nhiệt độ của vật liệu lọc và bình không thay đổi , do đó lượng nhiệt sinh ra không cần phải quan tâm. Tuuy nhiên trong một số trường hợp, Biofỉlter được đặt trong điều kiện nhiệt độ khác so với nhiệt độ môi trường xung quanh, nhiệt sẽ bị mất hoặc tăng trông qua thành hệ thống. Theo kinh nghiệm thực tế, để giải quyết trường hợp này bằng cách cách ly hệ thống lọc một cách nghiêm ngặt. Với những hệ thống lọc sinh học lớn, tỷ lệ không gian bên ngoài trên thể tích hệ thống là nhỏ , sự di chyển nhiệt qua thành hệ thống là không đáng kể. Cùng với những nhân tố được điều khiển , nhiệt được sinh ra trong quá trình sinh học sẽ xuất hiện ở hai dạng : nó sẽ được làm bay hơi từ đệm lọc, và khí ở đầu ra sẽ có nhiệt độ cao hơn khí ở đầu vào.
Với Biofiltraton thì thực sự là phương án tối ưu trong viẹc xử lý chất thải hiên nay.