Để đề phòng trường hợp bài viết trên
www.ungthu.net đột nhiên biến mất không một lời từ giã, tôi xin phép post lại bài viết đó. Nói có sách mách có chứng.
---------------------
THẦY TA CŨNG CHỮA ĐƯỢC UNG THƯ?
Mấy hôm tôi đưa vợ về Việt nam sau ṿng hóa trị thứ hai, bố vợ tôi lại đưa cho tôi mấy bài báo về Dược sỹ Đào Kim Long, người đang có một giả thuyết khá hứa hẹn về nguyên nhân gây bệnh Ung thư, và cũng đang chữa cho nhiều người theo hướng này bằng đông y. Nghe nói t́nh h́nh chữa trị của những bệnh nhân này có vẻ khả quan.
Tôi xin đăng lại mấy bài báo trên tờ "Tri thức trẻ" để các bạn tiện tham khảo. Cũng xin liệt kê luôn địa chỉ của Dược sỹ Đào Kim Long ở đây, pḥng khi các bạn cần t́m tới ông:
Dược sỹ Đào Kim Long
Làng Nhân Vinh, xă Dị Sử,
Huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Hóa trị xong cho vợ, tôi cũng sẽ t́m về nhà ông, nhờ ông bắt mạch, cho thuốc. Mời các bạn xem tiếp ba bài báo về ông trên Tri thức trẻ, số 146-148-149.
Kỳ I- Chuyện khó tin nhưng có thật
Một buổi sáng cuối năm 2004. Tại cơ sở chữa bệnh thứ hai của ông trên ngách đường Âu Cơ, Hà Nội. T́nh cờ gặp chị Thục Viên, cô giáo dạy Hóa ở một trường trung học cơ sở Thủ đô thuộc quận Ba Đ́nh - đôi mắt đen lúng liếng trên gương mặt rạng rỡ, thân h́nh đẫy đà, săn chắc không kém cây gị lụa; tôi dám chắc, không ai tin, mới hơn 1 năm trước, không ít người thân, bạn bè đă gạt nước mắt, hụt hơi mường tượng giây phút phải đành ḷng đưa tiễn chị “sang thế giới bên kia”.
Cuối năm học 2002/2003 chị bàng hoàng bởi những dấu hiệu khác lạ trong cơ thể. Chân tay ră rời, đầu óc mộng mị, thể xác mệt lả. Buồn ngủ, mà không thể chợp mắt. Mấy ngày đầu chị nghĩ do thời tiết lúc giao thời buổi cuối xuân chuyển sang đầu hè đỏng đảnh, nóng lạnh, ẩm thấp thất thường. Thế nhưng càng về sau, chị thấy thể trạng ngày sau nặng nề hơn ngày trước. Ban ngày chán ăn, bất kể bữa nào – hễ cho món ăn ǵ vào mồm cũng một cảm giác đắng ngắt. Ban đêm đầu nặng như đeo đá. Mất ngủ. Cơ bắp, thịt da trên cơ thể chị như bị bay hơi, sấy khô – cứ teo biến dần, da dẻ sạm đen, khô ráp. Từ trên 60 kg cân nặng, chị sụt xuống 55, rồi dưới 50kg. Chị buộc phải xin nghỉ việc. Không chỉ chồng con và những người ruột thịt trong nhà, mà các đồng nghiệp, bạn bè cũng bắt đầu lo cho chị. Ba đứa con thương mẹ suy nhược sức khỏe v́ quanh năm tần tảo lo việc dạy học, quản lư cửa hàng cà phê, chợ búa, cơm nước phục vụ cả nhà. Có đồng nghiệp nghi chị mắc bệnh phụ khoa ǵ đó. Bản thân chị không tin, bởi chị không hề thấy đau bụng dưới, không tiểu buốt hoặc tiểu rắt, không bị ngứa ngáy nơi thầm kín… Người bạn là bác sĩ chẩn đoán, có thể đó là những hậu quả tiêu cực của hội chứng thời măn kinh (chị đă bước vào tuổi 52).
Và chị quyết định gơ cửa các bác sĩ chuyên khoa. Hôm đi khám tại bệnh viện B. (theo đăng kư bảo hiểm y tế), cứ tưởng sẽ biết kết quả, về ngay trong ngày, ai ngờ các bác sĩ lắc đầu, bảo bệnh nặng, phải nằm lại để theo dơi, điều trị. Sau 10 ngày thăm khám, làm các xét nghiệm máu, nước tiểu… siêu âm, chị choáng váng, không tin vào tai ḿnh, khi nghe thông báo kết quả chẩn đoán bệnh. Chị bị suy thận, cuối độ ba! Không biết nhiều kiến thức về bệnh thận, song qua sách báo và các nguồn thông tin khác, từ trước ngày nhập viện, chị đă mang máng ư thức được rằng, sang độ bốn chỉ c̣n nước chạy thận nhân tạo để chờ cơ may thay thận khác. Xin thận của ai bây giờ? Mà có xin được, phải chờ mấy tháng mới đến lượt, trong khi cả nước hiện có tới 72 ngàn người đang phải xếp hàng chờ chạy thận nhân tạo và thay thận? Rồi chi phí chạy thận nhân tạo mỗi tháng dăm, bảy triệu; chi phí cấy ghép hàng trăm triệu và thuốc uống chống đào thải suốt đời… Tiền tạ, tiền tấn - đào đâu ra?
Chị lả đi bởi hàng loạt câu hỏi không thể t́m lời giải như thế. Gia đ́nh nghe tin không ai b́nh luận ǵ ngoài những lời động viên, an ủi, song nh́n gương mặt ủ dột của mọi người, chị biết - tất cả đều thương cho số phận đen đủi của chị. Sau 10 ngày nằm viện, chị không nhớ đă được uống, đă được tiêm bao nhiêu loại thuốc, chỉ nhớ: Trước ngày xuất viện, chị được truyền một bịch máu, song người vẫn lả đi, héo hắt.
Cầm bệnh án suy thận cuối độ ba về nhà, chị định phó mặc sinh mạng cho số phận. Song người thân, bạn bè không nghĩ thế. Không ít người nghi ngờ kết quả chẩn đoán. Nh́n số liệu tiểu cầu hồng cầu của chị tụt đến mức đáng lo ngại (bốn, năm chục và triệu ba, triệu sáu đơn vị) nước tiểu không có protein trong các phiếu xét nghiệm, có người quen làm ngành y nghi chị bị bệnh liên quan đến tủy sống. Và chị được chuyển sang bệnh viện Bạch Mai - đơn vị có khoa Huyết học với tŕnh độ điều trị các bệnh về tủy nổi tiếng hàng đầu đất nước. Sau hàng loạt xét nghiệm và siêu âm các chuyên gia ở đây khẳng định, Thủ phạm dẫn đến t́nh trạng sức khỏe của chị sa sút trầm trọng không phải là bệnh thận. Chị chưa kịp thở phào sung sướng, th́ đă lặng người v́ kết quả chẩn đoán thứ hai. Con bệnh c̣n tồi tệ hơn cả suy thận, cuối độ ba - chị bị ung thư tủy xương!
Phần v́ con bệnh tiến triển, phần v́ tinh thần hoảng loạn từ lúc hay biết tai họa của ḿnh, suốt 20 ngày nằm điều trị ở bệnh viện Bạch Mai hầu như chị chẳng ăn uống được ǵ. Các bác sĩ ở đây đă cho chị uống và tiêm những biệt dược tốt nhất. Chị được truyền tới 3 bịch máu (tổng cộng 1,5 lít), rồi … xuất viện cùng với lời hẹn: Sau 1 tháng, vào khám lại.
Trời mới chớm thu, đă phải mặc áo len, đầu bịt khăn, chân đi tất, mà chị vẫn thấy lạnh buốt từ ruột ra ngoài. Tạo sao, không phải sau một - hai tuần hay hai - ba tháng, mà lại “sau một tháng, vào khám lại”? Đợi chồng con ra khỏi pḥng, chị mới lén hỏi bác sĩ điều trị.
Theo phác đồ điều trị giai đoạn này, bệnh của chị, một tháng là thời gian để uống một số loại thuốc nhất định và tiếp tục truyền máu, trong trường hợp cần thiết. Chị cứ yên tâm, mọi việc sẽ tốt đẹp cả thôi!
Nghe vậy, chị hiểu, thầy thuốc chỉ cốt an ủi chị. C̣n sự thật, đă ung thư tủy xương th́ chỉ c̣n nước chờ người cho tủy như cô gái Li Sơ-u tội nghiệp trong một bộ phim Hàn Quốc, mà có lần chị đă xem trên truyền h́nh. Mà có phải tủy xương ai cũng cho ḿnh được đâu. C̣n hàng trăm điều kiện phức tạp để cơ thể có thể chấp nhận tủy xương lạ. Khó khăn đến nỗi ở Mỹ có cặp vợ chồng đă phải lau nước mắt, cố đẻ thêm một đứa con rồi hy sinh nó để có tủy xương cứu sống đứa lớn hơn… Ngẫm mà nẫu ruột.
V́ nhiều lư do khác nhau, măi gần 2 tháng sau chị mới vào bệnh viện khám lại. Đinh ninh thể nào cũng bị quở trách v́ lỗi hẹn, chị ngỡ ngàng trước thái độ vui vẻ của bác sĩ điều trị. Không những không trách cứ, bác sĩ c̣n cười sảng khoái sau khi xem kết quả xét nghiệm máu của chị. “Kết quả rất tốt. Cả hồng cầu và tiểu cầu đều tăng! Không phải truyền máu”. Nói rồi người thầy thuốc cẩn trọng kê một loạt tên thuốc vào cuốn y bạ của chị. Dặn: - Chị mua uống tiếp, tháng sau khám lại!
Chị lịch sự vâng dạ, cầm cuốn sổ y bạ ra về. Trong ḷng lẫn lộn cảm giác mừng vui, ngờ vực. Bệnh của chị, dù có uống thuốc, b́nh thường cứ sau 1, 2 – 3 tuần hoặc 1 tháng lại bắt buộc phải tiếp máu do hỏng tủy, hồng cầu và tiểu cầu giảm liên tục. Đằng này, mới sau 1 đợt điều trị… Hay có sự nhầm lẫn nào đó? Dẫu chưa tin hẳn, nhưng đều đặn như thế, đến tháng 12/2004, tṛn đúng 365 ngày, cứ sau 1 tháng chị lại có mặt ở bệnh viện để khám và lấy đơn thuốc mới. Nh́n chung kết quả xét nghiệm lần sau khá hơn lần trước. Tất nhiên cả bác sĩ điều trị và bệnh nhân đều phấn khởi. Lần khám áp chót (có xét nghiệm máu) ngày 7/12 thiếu chút nữa chị reo lên khi hỏi bác sĩ kết quả xét nghiệm: Hồng cầu 3 triệu 960 (người khỏe mạnh b́nh thường là 4 triệu; bạn bè trong trường rao hẹn, nhất định chị phải khao to, khi nào đạt 3 triệu sáu!); tiểu cầu: 181 (xấp xỉ mức b́nh thường – con bệnh đă bị đẩy lùi, chị đă khỏe mạnh như xưa!
Bác sĩ điều trị gật gù, cười nụ -“Thực tế chứng tỏ, hướng điều trị là đúng. Nhưng tôi không ngờ kết quả nhanh và tốt như vậy”. Và như mọi lần – người thầy thuốc cần cù lại ghi cho chị một đơn thuốc mới.
Song chỉ có chị và người thân trong gia đ́nh hiểu rơ, sự thực chị đă làm ǵ với hơn chục đơn thuốc trên. Chị lịch sự vâng dạ, cầm cuốn sổ y bạ không phải để xuống quầy thuốc trong bệnh viện, hoặc hiệu thuốc tây nào ngoài phố để mua (ngay số thuốc cho tháng điều trị đầu tiên chị vẫn giữ gần như nguyên xi ở nhà). Chị miễn cưỡng đóng kịch chỉ cốt có… lư do được thăm khám, xét nghiệm hàng tháng!
Thực tế, sau mỗi lần viếng thăm pḥng khám như thế, chị lại leo lên xe máy để con hoặc chồng đưa đến nhà ông Long “báo cáo” kết quả và bốc những thang thuốc mới!
Kỳ II: Gặp thầy hợp thuốc
Sau đợt điều trị 20 ngày ở bệnh viện, cho dù đă được uống, được tiêm những biệt dược tốt nhất và ba bốn lần truyền máu (tổng cộng một lít rưỡi), bác sỹ đă cho xuất viện-điều trị ngoại trú, song thực ḷng chị vẫn chưa vẫn chưa hết hoang mang. Ngoài năm mươi tuổi, mẹ của hai đứa con (nhỏ nhất đă là sinh viên đại học), hơn hai mươi năm “gơ đầu trẻ”, tiếp xúc với khá nhiều đối tượng – chị hiểu, được ra viện bao giờ cũng hàm hai ư nghĩa. Có thể là dấu hiệu “tai qua nạn khỏi” với bệnh thông thường, đồng thời cũng có thể là cái đinh cuối cùng đóng vào chiếc quan tài số mệnh, vĩnh viễn chia tay sự sống, trường hợp mắc bệnh nan y. Chị bị ung thư tuỷ xương, chắc chắn đă thuộc nhóm “ra viện” thứ hai.
Không ai hiểu người bệnh bằng chính người bệnh. Ngay những ngày c̣n nằm viện, mặc dù được các bác sỹ và nhân viên y tế chăm sóc hết sức nhiệt t́nh và chu đáo, song chị vẫn linh cảm thấy điều ǵ đó không ổn trong phương pháp điều trị đang áp dụng đối với bản thân. Vẫn biết, “thuốc đắng giă tật” nhưng đă được tiêm, được uống bao nhiêu thứ “thuốc đắng” hảo hạng, mang đủ nhăn mác nước ngoài uy tín nhất… “tật” chưa biết có “giă” hay không, mà đă ngần ấy thời gian, chị vẫn chưa thấy dấu hiệu cải thiện rơ rệt.
Toàn thân vẫn rệu ră, tất cả các khớp xương luôn trong trạng thái gồng lên để duy tŕ tấm thân muốn rũ ra từng mảng. Đầu óc quay cuồng, chóng mặt, không chỉ những lúc đột ngột đứng lên, ngồi trên giường mà cả ngay khi nằm thẳng đuỗn trên giường. Song tất cả vẫn chưa là ǵ so với cảm giác hụt hẫng, mệt mỏi âm ỷ hành hạ dường như suốt ngày.
Chứng kiến nỗi khổ như những cơn mưa trên trời bất chợt đổ xuống người chị, đến khi xuất viện không thấy dấu hiệu khá hơn, thế nên về nhà uống thuốc tiếp được mươi ngày, không chỉ bản thân chị, chồng chị, mà các con chị cũng hoang mang, không biết rồi sẽ chữa trị thế nào.
“Có bệnh vái tứ phương” – đang theo Tây y, nghe người mách bảo, chị chuyển hướng sang Đông y. Song không phải ngay lần chuyển đổi đầu tiên, mọi việc đă “xuôi chèo, mát mái”. Theo lời giới thiệu của người quen, chị được đưa đến một thầy lang chuyên chữa các bệnh nan y có nghề gia truyền đă ba đời, nổi tiếng “mát tay” để bắt mạch, bốc thuốc ở huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội.
Đúng là “thuốc tác dụng nhanh” y như lời đảm bảo của thầy. Mới uống hết một thang, sau hai ngày đă thấy toàn thân bới ê ẩm, không c̣n cảm giác bồng bềnh như ngồi trên sóng biển và miệng ăn đă bắt đầu có cảm giác mặn, ngọt. Thế nhưng chị thà chết chứ không uống thang thứ ba. Lư do cũng đơn giản: - Trạng thái ngược với bí đái. Ban đêm cũng như ban ngày – đều đặn, cứ xấp xỉ ba mươi, bốn mươi phút chị bắt buộc phải vào toa-let!
Lại thêm một lần thất vọng. Tây y- mệt lả; Đông y – tiểu nhiều! Cổ nhân đă dạy, “chữa được bệnh, không ai chữa được mệnh. Có lẽ số chị đă hết. Tia hy vọng chưa kịp le lói sau ngày uống thang thuốc Đông y gia truyền đầu tiên, đă vụt tắt ngấm. Thời tiết cuối thu mát mẻ là vậy, mà sao chị thấy ngột ngạt, khó thở. Nhà cửa, cây cối.. tất cả như đổ sập trước mặt chị. Cảm giác thèm ăn, đói ngủ cũng biến mất. Chị thoi thóp quay về trạng thái “xác không hồn”, thầm nhủ ḷng “ thôi đành đứt gánh ra đi” cho đến ngày con gái chị bất chợt kể cho chị nghe về giấc mơ kỳ lạ của nó…
Là nhà giáo, lại là người duy nhất, vô thần, chị không bao giờ tin vào những chuyện chiêm bao, báo mộng… thế nhưng có chi tiết gần giống với chi tiết trong câu chuyện sau này, xả ra hoàn toàn ngẫu nhiên, đúnglúc chị đă sẵn sàng tư tưởng thanh thản bước sang “thế giới bên kia”, bắt buộc chị phải suy nghĩ lại.
Đang lúc đă quên cả thuốc Tây, thuốc ta, con gái chị hồn nhiên kể rằng, đêm qua nó mơ thấy bà ngoại (đă qua đời được dăm năm). Bà bảo, mẹ chưa thể chết. Sẽ có thầy lang chữa khỏi bệnh cho mẹ. Hỏi bà, thầy lang ở đâu, bà bảo – cứ đi qua cầu Chương Dương. Chưa kịp hỏi bà địa chỉ cụ thể, bà đă biến mất…
Chị không loại trừ khả năng v́ thương mẹ, con chị cố ư tưởng tượng ra những giấc mơ lạc quan như thế để động viên chị. Đó chính là một trong nhiều thủ thuật của liệu pháp tâm lư, mà sách báo vẫn nhắc đến. Thế nhưng, điều kỳ lạ xui khiến chị không thể hoàn toàn phớt lờ ‘giấc mơ” của con chính là chi tiết về địa chỉ thầy lang trong “giấc mơ” gần trùng với thông tin liên quan đến hướng đi đến chỗ ở của thầy lang sau này do bạn thân của chị, một cán bộ ngành ngân hàng cung cấp-từ nhà chị, cũng phải “đi qua cầu Chương Dương”!
Số là, phải ngót một tháng sau khi chị ra viện, mọi người thân quen mới biết chị thuộc dạng “bệnh viện cho về nhà điều trị ngoại trú, v́ ung thư tuỷ xương”. Trước đó, mặc dù nhiều người đă vào thăm chị tại bệnh viện, song v́ lư do tếnhị-bản thân chị và người nhà “giữ bí mật”, nên không ai biết bệnh t́nh của chị nghiêm trọng như vậy. Đến khi hiểu ra sự thật, người bạn thân kể trên đă mách chị địa chỉ của thầy thuốc mới. Con trai chị ấy mới chín tuổi trước đó hơn ba tháng vừa phải cắt một quả thận, nhờ uống thuốc của thầy lang “đi qua cầu Chương Dương”, đến nay vẫn khoẻ mạnh b́nh thường.
Hy vọng sống trong chị đă nguội lạnh sau hàng loạt sự cố nẫu ruột, lại ấm dàn lên, khi chị t́m hiểu lya do bạn chị- một phụ nữ nổi tiếng cẩn thận và đặt trọn niềm tin vào Tây y, lại t́m đến thầy lang để cắt thuốc cho con.
Nói chính xác, không chỉ bạn thân cẩn thận, mà cả chồng chị ấy cũng thế, c̣n cẩn thận hơn. Là một nhà giáo có thâm niên nhiều năm trong nghề, trước khi đồng ư để các bác sỹ cắt một quả thận của con, anh đă tham khảo ư kiến của nhiều chuyên gia. Với thực trạng bệnh t́nh nan giải (quả thận có khối u nhỏ, liên tục chảy máu mặc dù các bác sỹ can thiệp bằng đủ h́nh thức) – ai cũng khuyên, bắt buộc phải cắt để cứu quả thận c̣n lại và sinh mạng của con. Cắt rồi, đúng là máu hết chảy, song cả hai vợ chồng lại ngơ ngác v́ nỗi lo khác – mối đe doạ khối u không thể cắt tiệt nọc có thể tiếp tục tấn công bất cứ lúc nào. Và lại xuất hiện lời khuyên: T́m thuốc Đông y để tăng cường thể lực và ngăn chặn khả năng con bệnh tái phát.
T́nh cờ biết chuyện của con anh nhà giáo, dược sỹ Trần Bảo, một cán bộ nghiên cứu dược liệu có kinh nghiệm đă kể cho anh nghe ca bệnh đặc biệt thú vị, mà ngay cả bản thân ông đă chứng kiến. Bệnh trạng c̣n nặng hơn cháu bé, đại tá Hợp bị ung thư thận. Năm 1999 đă cắt ?một quả, bác sỹ điều trị dự đoán tối đa chỉ sống thêm được 6 tháng. Thế nhưng, đến ngày biết chuyện con trai anh, đă hơn 4 năm dài hơn dự đoán trên, đại tá Hợp vẫn sống và khoẻ mạnh. Tất cả nhờ một năm liên tục và thỉnh thoảng uống thuốc của Bạn ông, dược sỹ - lương y Đào Kim Long, mà điạ chỉ đă giới thiệu ở đầu bài viết.
Bây giờ, khi khoẻ mạnh, chị kể rằng, ngoài thông tin về hai ca bệnh đặc biệt - người thật, việc thật mà chị biết được thông qua bạn bè gia đ́nh; c̣n một lư do khác khiến chị đặt niềm tin vào thầy Long, ngay lần tiếp xúc đầu tiên. Thứ nhất là cái Tâm. T́m đến ông dù là nông dân hay trí thức quan chức hay cửu vạn … bất kể giàu nghèo, bất kể bệnh tật ǵ – với ai ông cũng ân cần chu đáo. Bệnh ǵ chữa được, ông bảo được ; bệnh không thể - ông cho lời khuyên thích hợp. Người bệnh quá nghèo ông có thể cho nợ, hoặc chữa không lấy tiền, song không bao giờ né tránh trách nhiệm. Thứ đến là kiến thức. Ngoài kinh nghiệm gia truyền như ông thầy ở Từ Liêm, trước khi trở thành lương y, ông Long đă là dược sỹ được đào tạo chính quy, có bài bản. May mắn được theo học những thầy giỏi, thuộc thế hệ xuất sắc nhất hai ngành y và dược của nước ta như các giáo sư : Hồ Đắc Di, Trương Công Quyền, Đỗ Tất Lợi, Vũ Văn Chuyên… , lại ham và tự học một cách thông minh, ông tích lỹ được khối lượng kiến thức Đông – Tây, cổ - kim khổng lồ. Là lương y, song trong không ít trường hợp, ông áp dụng một cách sáng tạo kiến thức về sinh hoá huyết học, vi trùng học, về bệnh học lâm sàng, … theo lư thuyết tây y để sử dụng có hiệu quả nhất các bài thuốc y học dân gian và cổ truyền.
Nắm vững cơ chế trị bệnh cả Tây y và Đông y, ông luôn tỏ ra tự tin và đă truyền được ḷng tin ấy vào hầu hết người bệnh, mà ông bắt mạch, kê đơn. Ḷng tin ấy càng vững chắc khi em trai chồng chị được ông Long chữa khỏi căn bệnh dị thường – nửa mặt tê dại gần mất hết cảm giác, bắp chân đau nhức như bị vỡ ống xương. Trước đó nhiều lần đă uống thuốc Tây ?và cả năm châm cứu ở những cơ sở y tế khác nhưng vẫn vô hiệu. Và khâm phục hơn, khi cả hai cơ sở ông làm việc đều không hề treo biển quảng cáo, ông bao giờ cũng đông bệnh nhân.
Đến nhà ông lần đầu ngày 17 tháng 10 năm 2003, biết chị đă qua bốn lần truyền máu sau khi đă bắt mạch, hỏi han bệnh t́nh và xem qua bệnh án, ông khẳng định có thể chữa được. Hỏi v́ sao, ông bảo, với loại bệnh này và hiện trạng sức khoẻ của chị, c̣n nhận máu, tức cơ thể vẫn c̣n khả năng chiến thắng. Tất nhiên với sự trợ giúp của Tây y( công đoạn truyền máu). Và chị bắt đầu nhờ ông. Mấy tháng đầu, ông cắt cho 5 thang, sau mỗi lần thăm khám; thời gian sau – mỗi lần 10 thang khi bệnh t́nh đă ổn định. Mỗi thang sắc uống 2 ngày kể cả dịp tết Nguyên Đán. Uống hết tháng thứ 14 ông bảo không cần nữa, song chị cẩn thận, muốn “chắc ăn” nên vẫn đề nghị ông tiếp tục cắt thuốc.
Kỳ III: Đi trước tác giả giải thưởng Nobel?
Mặc dù đă nhiều lần tṛ chuyện trực tiếp với một số bệnh nhân và xem kết quả xét nghiệm của cơ sở y tế có uy tín, song tôi vẫn chưa thể hoàn toàn tin vào câu chuyện “Thầy ta chữa được ung thư”. Ngay tại những quốc gia có nền y học phát triển bậ nhất thế giới như Mỹ và Trung Quốc, tỷ lệ nạn nhân ung thư, nhất là ung thư tủy xương may nắn thoát khỏi lưỡi hái tử thần cũng rất thấp. Người ta sẵn có máy móc hết sức hiện đại với hàng trăm loại biệt dược quư hiếm được tinh chế theo công nghệ tiên tiến nhất; trong khi ông Long chỉ có các loại thảo dược nội địa, chế biến thủ công…
Với hy vọng một phần giải đáp thắ mắc trên, xin giới thiệu nội dung bài phỏng vấn người trong cuộc.
Ông nghiên cứu ung thư từ năm nào?
Từ năm 1966, ngay sau khi tốt nghiệp trường Đại học Dược Hà Nội và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. V́ là học tṛ cưng của thấy Lợi(GS.TS Đỗ Tất Lợi), lại nổi tiếng đam mê khoa học, nên tôi sớm “lọt mắt xanh” hai chuyên gia đầu ngành nghiên cứu bệnh ung thư của nước ta thời ấy là thầy Di và thầy Quyền ( GS.Hồ Đắc Di và GS. Trương Công Quyền).
Thầy Quyền trực tiếp giao cho tôi nhiệm vụ nghiên cứu về nấm lớn ( chủ yếu là các loại Linh Chi) để t́m nguyên liệu làm thuốc điều trị ung thư. Sở dĩ các thầy đặt hy vọng vào nấm lớn, bởi như lời thầy Quyền- các loại thuốc chữa nhiễm khuẩn, tức kháng sinh, điển h́nh là Penixinlin giớ khia học lấy từ vi nấm; các thuốc cấp cứu- lấy từ cây cỏ, thí dụ- thuốc trợ tim Neriolin tinh chế từ lá cây trúc đào, thuốc cảm cúm Aspirin tinh chế từ vỏ cây dương liễu; vậy th́ thuốc chữa ung thư phải t́m ở những cây nấm lớn…
Và đó cũng là thời gian ông tiếp xúc với bệnh nhân ung thư đầu tiên?
Đúng vậy. Sự kiện diễn ra năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Thầy Hồ Đắc Di giới thiệu cho chúng tôi một phụ nữ người dân tộc Tày. V́ bị ung thư, cánh tay chị phù nề, ph́nh to nhu quả bí, nhung mầu lại đỏ ḥn quả nhót chín. Chụp X-Quang chỉ c̣n một khối trong suốt, tất cả xương đă bị con bệnh ăn sạch! Thời đó thiếu thốn mọi thứ, kể cả kiến thức về bệnh ung thư. Chắc chị ấy không sống được bao lâu, nhưng h́nh ảnh cái cánh tay khủng khiếp ấy bám riết chúng tôi trong nhiều năm và nó cang thôi thúc chúng tôi tích cực t́m kiếm phương thuốc chữa trị.
Các loại nấm lớn là phương thuốc đó?
Chúng tôi đă nghiên cứu nhiều năm, song các loại Linh Chi không mang lại kết quả như trông đợi. Có thể v́ thời đó giới khoa học hiểu chưa đúng về bệnh ung thư. Họ chỉ biết rằng, ung thư là hậu quả của t́nh trạng rối loạn, chuyển sinh sản tế bào từ gián phân sang trực phân, c̣n lư do tại sao th́ không ai lư giải được. Chỉ biết rằng, đặc điểm của hiện tượng là tế bào sinh sản cực nhanh và hệ quả là phải tiêu thụ nhiều thức ăn, tức thu hút ngày càng nhiều mạch máu để nuôi khối u và cuối cùng nạn nhân sẽ chết v́ suy sụp. Do tin rằng, chỉ cần “dọn sạch” khối u là giải quyết được vấn đề, bởi thủ phạm gây ra bệnh là khối u, thế nên người ta đi t́m trong thiên nhiên những hợp chất khả dĩ thực hiện được nhiệm vụ đó (tương tự như thuốc kháng sinh tiêu diệt vi trùng điều chế từ vi nấm).
Ông làm ǵ, sau thất bại với các loại Linh Chi?
Trước hết, xin lư giải tại sao tôi lại theo học nghành Y Dược và gắn cuộc đời ḿnh với Đông Y. Trước hết v́ nỗi đau gia đ́nh. Thực ra từ nhỏ tôi đă thích môn văn và có năng khiếu học văn (lớp tám đă có thơ đăng báo) thế nhưng bước ngoặt cuộc đời sảy ra năm tôi học lớp 10. Mặc dù gia đ́nh có nghề làm thuốc, song mọi người đều bất lực chứng kiến cảnh em gái tôi mới 16 tuổi chết dần v́ bệnh tim. Hồi đó ở miền Bắc, bệnh viện Bạch Mai là cơ sở y tế có uy tín nhất mà cũng không cứu được. Với hy vọng học những kiến thức khoa học khả dĩ giúp những người như em gái tôi chiến thắng bệnh tật, tôi quyết tâm thi vào trường Đại học Y Dược, Hà Nội. Nói vậy, song thực tế cho đến khi trở thành sinh viên, tôi vẫn chưa h́nh dung được cụ thể con đường tiếp theo của ḿnh sẽ như thế nào. Măi đến một hôm tại thư viện Nhân dân (thư viện Quốc gia ngày nay), t́nh cờ t́m được 6 tập sách “Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS Đỗ Tất Lợi, cho dù vẫn chưa được học thầy, chưa biết mặt mũi thầy thế nào, song tôi đă vô cùng khâm phục và tự đặt cho ḿnh mục tiêu phải học bằng được nghề Y dược.
Nghiên cứu sách thầy Lợi, mới biết giữa Đông Y và Tây Y có rất nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều có truyền thống sử dụng cây cỏ, con vật làm thuốc phục hồi , tăng cường sức khỏe và chữa bệnh cho con người. Chỉ có điều, Phương Tây có nền khoa học – kỹ thuật phát triển hơn, nên người ta đă chế biến ra nhiều dạng thuốc uống, thuốc tiêm,… khác nhau, sử dụng tiện lợi hơn. Trước đó, các cụ nhà tôi hành nghề chủ yếu dựa vào cuốn “Nam dược thần hiệu”, kiến thức rất hạn chế.
Đọc sách của thầy Lợi, sau này lại trực tiếp được thầy dạy và hướng dẫn nghiên cứu, tôi “bị nhiễm” cả tính đam mê khoa học của thầy – đă làm việc ǵ phải làm ḱ được; đă nghiên cứu cái ǵ, bao giờ cũng đi đến tận cùng gốc rễ. Sau khi nghiên cứu các loại nấm Linh Chi để t́m nguyên liệu chữa ung thư không có kết quả, tôi chuyển sang lĩnh vực vừa nghiên cứu vừa chữa bệnh bằng y học dân tộc cổ truyền và Đông y.
Và quá tŕnh vừa nghiên cứu vừa chữa bệnh đă giúp ông t́m ra nguyên liệu điều trị ung thư?
Đúng thế. Trước hết, muốn chữa bệnh có hiệu quả, người thầy thuốc phải biết được cơ chế phát sinh bệnh. Trong thời gian nhiều năm hành nghề, riêng với bệnh ung thư, với kiến thức về giải phẫu học, bệnh học, sinh hóa… của Tây y, nghiên cứu về mạch và áp dụng kỹ thuật tứ chẩn của Đông y, thực tế điều trị người bệnh đă giúp tôi lư giải được nguồn gốc phát sinh của con bệnh. Sự thực, ung thư là một bệnh thuộc dạng chuyển hóa, mà nguyên nhân sâu xa là t́nh trạng gan bị ngộ độc. Nó hoàn toàn không phải là nguyên nhân gây bệnh như cách lư giải kinh điển phổ biến. Cụ thể, ung thư là hậu quả của t́nh trạng rối loạn chuyển hóa protein.
Dựa vào những chứng cớ ǵ để khẳng định như vậy?
Thực tế khám và chữa bệnh. Nh́n chung, tất cả người bệnh đến khám (có kết quả xét nghiệm sinh hóa của bệnh viện hoặc không) đều có biểu hiện chuyển hóa cơ bản tăng. Tùy mức độ nặng nhẹ của con bệnh và từng loại bệnh cụ thể - lương y có tŕnh độ sẽ nhận thấy mức độ phát nhiệt từ huyệt lao cung trong ḷng bàn tay với cường độ khác nhau. Mạch người bệnh bao giờ cũng cường hỏa và rối loạn. Đối chiếu với kết quả xét nghiệm, sau thời gian dài nghiên cứu, tôi rút ra kết luận quan trọng. Người bị các bệnh dạng dị ứng như nổi mề đay, á sừng, eczema… thường là nạn nhân của t́nh trạng rối loạn chuyển hóa gluxit. Người bị bệnh cao huyết áp, rối loạn tim mạch… thủ phạm là rối loạn chuyển hóa lipit sinh ra cholesterol trong máu cao. Và t́nh trạng rối loạn chuyển hóa protein sẽ sinh ra các bệnh ung bướu (lành hoặc ác tính).
Có thể hiểu, t́nh trạng gan bị ô nhiễm khiến cho quá tŕnh chuyển hóa vật chất trong cơ thể bị rối loạn là nguyên nhân sâu xa của bệnh ung thư?
Gan với hai chức năng chính là chuyển hóa và giải độc là cơ quan đóng vai tṛ hết sức quan trọng đối với sự sống, mà cho đến nay khoa học vẫn chưa khám phá hết bí mật của nó. Không phải ngẫu nhiên, khi biết rằng, cho dù đă có lịch sử phát triển hàng chục ngàn năm, song các bệnh có nguồn gốc từ gan bị ô nghiễm lại được Đông y xếp hạng chót trong “tứ chứng nan y” (phong, lao, cổ, lại - phong (hủi, cùi) và lao là hai bệnh nhiễm trùng đă được Tây y giải quyết bằng thuốc kháng sinh, riêng Cổ (xơ gan cổ trướng) và Lại (ung thư) đến nay vẫn là nan y). Thực chất, cả 2 loại bệnh nan y sau cùng đều là hậu quả của trạng thái rối loạn chuyển hóa và đều xuất phát từ gan.
Như vậy, lư thuyết về bệnh ung thư của ông khác xa lư thuyết kinh điển và tất nhiên phương pháp điều trị cũng không giống Tây y?
Khác về căn bản. Như đă lư giải ở trên về cơ chế sinh bệnh - các khối u chỉ là hậu quả của con bệnh. Một khi quá tŕnh chuyển hóa protein bị rối loạn, thân nhiệt đột ngột tăng cao bắt buộc cơ thể phải sinh ra những khối u để dung nạp năng lượng dư thừa. Nếu 1 u vẫn chưa đủ sẽ xuất hiện cái thứ hai, thứ ba, thậm chí đến cái thứ 100. Chúng mọc khắp người. Như vậy những khối u đó vừa là hậu quả của con bệnh, một mặt vừa là bệnh, mặt khác lại đóng vai tṛ tạm thời giúp cơ thể tự vệ, chống lại con bệnh. V́ nếu không có những khối u dung nạp năng lượng dư thừa trong quá tŕnh đốt cháy khốc liệt như thế, cơ thể sẽ suy sụp nhanh chóng và chết v́ sốt cao. Do vậy phải tôn trọng và không nên tiêu diệt chúng. Và muốn chữa tận gốc ung thư nhất thiết phải lập lại trạng thái cân bằng trong chuyển hóa protein.
Không thể sử dụng các loại Linh Chi, ông đă dùng biệt dược ǵ làm nguyên liệu chữa trị ung thư?
Sử dụng Linh Chi không có kết quả, tôi tiếp tục sưu tầm và khai thác vốn quư của dân tộc, đúng với lời dạy “Tôi tiên sư kính đạo tiên sư” (Tiếp thu đạo chữa bệnh của các thày thuốc đi trước ở tất cả các nước) và “Nam dược trị Nam nhân” của đại danh y Tuệ Tĩnh, ông tổ thuốc Nam nước nhà. Thực ra trong dân gian có không ít loại thảo dược có thể dùng kết hợp trong các bài thuốc điều trị ung thư. Thế hệ 50-60 tuổi hôm nay có thời đă sống ở nông thôn miền Bắc chắc hẳn chưa quên khúc hát đồng dao trong tṛ chơi rồng rắn của trẻ thơ, trong đó có đoạn:
“Rồng rắn lên mây
Trồng cây núc nắc
Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không?”
Quanh nhà tôi và nhà các thầy lang trong vùng, nhà nào cũng trồng cây núc nắc. Lá của nó được các thầy lang sử dụng phổ biến trong rất nhiều bài thuốc, nhất là trong điều trị các bệnh thuộc dạng dị ứng. Dựa vào cuốn cẩm nang của thầy Lợi, tôi t́m đọc các tài liệu về công dụng chữa bệnh của những thảo dược khác có tác dụng “làm sạch” nội môi như cây núc nắc, các loại kim ngân, ké đầu ngựa… Song song với việc làm đó, tôi triệt để tận dụng kinh nghiệm dân gian (điển h́nh là trường hợp dùng lá cái đắp vào những khối u của đồng bào các dân tộc vùng núi Tây Bắc).
Ông có nhớ bệnh nhân ung thư đầu tiên được chữa khỏi bằng nguyên liệu dân gian?
Chuyện xảy ra đă ngót 20 năm trước. Cậu ta tên là Thiện, người cùng làng. Làm thợ đốt ḷ gạch bỗng nhiên bị sốt cao cả tuần. Hạch nổi khắp quanh cổ. Sau khi thăm khám, bắt mạch, tin chắc bệnh nhân bị ngộ độc than, tôi bảo: bây giờ cháu cứ lên bệnh viện huyện, ở đó người ta sẽ giới thiệu lên bệnh viện tỉnh, bệnh viện tỉnh sẽ kết luận cháu bị ung thư ṿm họng và cấp giấy giới thiệu lên bệnh viện K ở Hà Nội để chữa trị. Nhưng bác biết, nhà cháu nghèo, nếu không có đủ tiền chữa chạy như vậy, về đây bác sẽ chữa cho. Tùy cháu suy nghĩ. Ngay hôm sau, nó mang cho tôi xem tờ giấy của bệnh viện tỉnh giới thiệu lên bệnh viện K. Tôi đă cắt thuốc cho cậu ta uống liền trong một tháng th́ khỏi. Bây giờ làm thợ mộc, thợ nề, vẫn khỏe mạnh b́nh thường.
Thời gian qua ông có bao giờ gặp lại những ca bệnh tương tự như cô gái Tày năm xưa?
Có chứ. Cái ác của ung thư là hễ có khối u bám vào xương (kể cả trường hợp không phải ung thư xương), nếu không chữa chạy kịp thời, con bệnh sẽ ăn hết khúc xương ở đó. Năm ấy, cụ Cam ở làng Giang, xă Nhân La, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên bị ung thư phổi đă chạy lên đầu. Bệnh viện chẩn đoán chỉ có thể sống được 2 tuần. Tôi cắt thuốc, đến tháng thứ ba thấy t́nh h́nh không thể cải thiện, tôi bảo với người nhà là cụ không thể qua khỏi và dặn, khi nào “thay áo”, nhớ kiểm tra hộp sọ của cụ. Ba năm sau, tôi nhận được thông tin: hộp sọ của cụ bị thủng một lỗ bằng quả vải!
Tuy nhiên, hoàn toàn có thể vượt qua, trường hợp phát hiện sớm và được điều trị kịp thời. Điển h́nh là trường hợp cậu Cốm ở thôn Hoàng Nha, xă Minh Hải, quê tôi và hai cô em bà Điệp, vợ tôi. Năm ấy Cốm bị U K bằng quả ổi ở gốc ngón chân áp út. Tôi dùng lá cái đắp vào khối u và cắt thuốc cho cậu ta uống. Hết 50 thang, khối u biến mất, song chân vẫn c̣n đau. Tôi bảo rằng, cháu c̣n đau dăm, sáu năm nữa v́ mẩu xương ấy đă bị khối u ăn ṃn, cần phải có thời gian phục hồi. Năm nay Cốm 50 tuổi, đă có cháu ngoại. Với hai cô em vợ, một cô bị u bối ở đốt sống lưng L5; cô kia khối u ở vai. Cả hai đều khỏi hẳn sau thời gian đắp lá và uống thuốc.
Quay lại trường hợp chữa khỏi bệnh ung thư tủy xương. Giả sử, bệnh nhân không gơ cửa bác sĩ Tây y, không nằm viện như ttrường hợp cậu Thiện, cậu Cốm, hai cô em bà Điệp…, ông có chữa được không?
Riêng với ung thư tủy xương, các bài thuốc của tôi không thể giải quyết vấn đề, nếu như đối tượng không được tiếp máu trong một thời gian nhất định.
Vậy, theo ông, giữa Đông y và Tây y, nền khoa học nào đóng vai tṛ quan trọng hơn trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân loại?
Thật khó so sánh vai tṛ của Tây y và Đông y trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân loại. Thứ nhất, bởi cả hai đều chưa hoàn chỉnh. Con người là cả vũ trụ thu nhỏ và cả hai mới chỉ khám phá được một phần rất nhỏ bí mật của cái “vũ trụ” thu nhỏ ấy. Được tiếng hiện đại hơn, song tối đa nền y học phương Tây cũng chỉ chiếm khoảng 50% kiến thức về con người của nhân loại. Thế mới hiển hiện thực tế: -Có những sự cố Tây y giải quyết tốt hơn (thí dụ, phẫu thuật cắt ruột thừa bị viêm nhiễm) và ngược lại - có những sự cố Đông y làm tốt hơn (như cảm nắng, cảm gió…). Thứ hai, có không ít loại bệnh nhất thiết phải kết hợp cả hai mới có thể đạt hiệu quả tối ưu. Bệnh của cô Viên là trường hợp điển h́nh Đông y nhất thiết phải có sự trợ giúp của Tây y (khâu xét nghiệm và tiếp máu); Trái lại, với các trường hợp di chứng sau tai biến năo (liệt tứ chi, rối loạn thần kinh thực vật…) Tây y lại cần sự trợ giúp đắc lực của Đông y trong công đoạn phục hồi chức năng một số bộ phận quan trọng của cơ thể (bằng châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, uống thuốc Nam…).
Theo ông, chúng ta hoàn toàn có thể chiến thắng được hai bệnh nan y c̣n lại?
C̣n tùy thuộc vào t́nh trạng rối loạn chuyển hóa cụ thể. Nếu trạng thái ấy đă vượt quá ngưỡng b́nh thường, th́ không chỉ ung thư, mà ngay đến cảm nắng, sốt xuất huyết… cũng có thể gây tử vong.
Có nhiều người biết về phát hiện mới của ông về cơ chế sinh bệnh ung thư và kết quả điều trị bằng Đông y của ông?
Có, song cũng chỉ giới hạn trong phạm vi Hội nghị khoa học nhỏ. Cuối năm 1992, tại Đại học Dược Hà Nội, tôi đă tŕnh bày lư luận đă được tổng kết từ thực tiễn công tŕnh nghiên cứu và điều trị bệnh ung thư bằng Đông y của ḿnh. Trong các nhà khoa học có thâm niên nghiên cứu nhiều năm, tôi gặp lại thầy Trương Công Quyền và thầy Đặng Thanh Phúc. Cho dù không có ư kiến phản bác, song nh́n chung mọi người vẫn chưa thật tin tưởng. Giáo sư Trương Công Quyền bảo rằng, nghe anh nói cũng có lư, riêng cách chẩn đoán bằng bắt mạch, tôi thấy c̣n mù mờ lắm, nhưng tôi già rồi, các anh cứ chủ động nghiên cứu tiếp.
Tháng 11 năm 2004, tập thể ba nhà hóa học phương Tây (Aaron Ciachenovez, Avram Hershko người Ixraen và Ivwin A. Rose, người Mỹ) đăng quang giải thưởng Noben Hóa học nhờ công tŕnh nghiên cứu, trong đó họ đă lư giải được cơ chế phát sinh bệnh ung thư tương tự như lư luận của ông. Tiếc rằng, ít ai biết, có nhà khoa học Việt Nam đă đi trước họ hàng chục năm…
Có thể tôi đă đi trước họ về mặt lư luận và ứng dụng nó có kết quả trong điều trị một số nạn nhân của chứng bệnh nguy hiểm này. C̣n trong lĩnh vực kỹ thuật cụ thể, nhờ có phương tiện máy móc hiện đại, họ đă “vạch mặt, chỉ tên” chính xác thủ phạm gây ra tai họa.
Xin cảm ơn ông.
Thay lời kết:
Tường thuật lại vài mẩu chuyện trên - như lời ông Đào Kim Long nhiều lần nhấn mạnh – những người trong cuộc không có mục đích nào khác ngoài mong muốn khẳng định một thực tế:
Trong điều trị không ít chứng bệnh nguy hiểm, tính hiệu quả của Đông y nói chung, Y học dân tộc cổ truyền Việt Nam nói riêng, không hề thua kém y học phương Tây. Đồng thời, sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân loại sẽ hiệu quả hơn, một khi đội ngũ thầy thuốc biết ứng dụng một cách sáng tạo các thành tựu khoa học hiện đại vào nền y học dân tộc cổ truyền của đất nước ḿnh. Và quan trọng hơn, nhắn nhủ mọi người chớ vội bi quan...